***
~
Tài liệu này chỉ dành cho các Phật Tử.
~
Chú thích hình minh họa:
"Xuất
gia tầm đạo năm 29 tuổi, sau 6 năm công phu hành thiền và tu tập, Đức Phật đã
hoàn toàn giác ngộ lúc Ngài 35 tuổi. Một năm sau, Đức Phật trở về thành phố quê
hương của Ngài là Ca Tỳ La Vệ, nơi con trai duy nhất của Ngài là La Hầu La cũng
gia nhập vào tăng đoàn”.
***
1
~ Lời giới thiệu.
Theo
sự xác định niên đại truyền thống, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakya thub-pa),
còn được gọi là Đức Phật Cồ Đàm (Gau-ta-ma), sống trong khoảng thời gian từ năm
566 đến 485 trước Công Nguyên ở miền Trung Bắc Ấn Độ. Các nguồn tài liệu về
Phật giáo có rất nhiều bản tường thuật khác nhau về cuộc đời của Ngài, theo
thời gian, lại có thêm những chi tiết dần dần xuất hiện. Vì những tài liệu văn
học Phật giáo đầu tiên chỉ được viết sau ba thế kỷ từ khi Đức Phật nhập diệt,
khó mà biết chắc độ chính xác của các chi tiết tìm thấy trong các bài tường
thuật này. Hơn nữa, chỉ vì một số chi tiết trong dạng văn bản xuất hiện muộn
hơn các chi tiết khác, ta không có đủ lý do để coi nhẹ giá trị của chúng. Nhiều
chi tiết có thể đã được tiếp tục truyền miệng sau khi các chi tiết khác đã được
viết ra.
Hơn
nữa, các tiểu sử truyền thống của các đạo sư Phật giáo vĩ đại, gồm cả chính Đức
Phật, thường được biên soạn vì mục đích giáo huấn, chớ không phải để lưu trữ
tài liệu lịch sử. Cụ thể hơn, tiểu sử của các đạo sư vĩ đại đã được viết theo
cách để giảng dạy và truyền cảm hứng cho các Phật tử đang theo đuổi con đường
tâm linh, đi đến sự giải thoát và giác ngộ. Vì vậy, để có được lợi lạc từ câu
chuyện về cuộc đời của Đức Phật, chúng ta cần hiểu câu chuyện theo bối cảnh này
và phân tích các bài học mà ta có thể học hỏi được từ đó.
2
~ Đản Sinh, Cuộc Đời Niên Thiếu và Tâm Xả Ly.
Theo
những bản tường thuật sớm nhất thì Đức Thích Ca Mâu Ni (Shakya thub-pa) được
sinh ra trong một gia đình chiến binh, quý tộc giàu sang ở nước Thích Ca
(Shakya), có thủ đô là thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu, Ser-skya’i gnas), nằm ở
biên giới giữa Ấn Độ và Nepal ngày nay. Không có sự đề cập về việc Ngài sanh ra
là thái tử trong một gia đình hoàng tộc. Chỉ trong những bản tường thuật sau
này mới nói đến việc Ngài sanh ra là thái tử và có tên là Tất Đạt Đa
(Siddhartha, Don-grub). Phụ thân ngài là Tịnh Phạn (Shuddhodana, Zas
gtsang-ma). Trong các văn bản về sau, danh tánh mẫu thân của Ngài là Ma Gia
(Maya-devi, Lha-mo sGyu-‘ phrul-ma) cũng xuất hiện, cũng như tường thuật về
việc Đức Phật được thụ thai một cách thần kỳ trong giấc mơ, bà Ma Gia thấy con
voi trắng sáu ngà đi vào bên hông bà và lời tiên tri của nhà hiền triết A Tư Đà
(Asita), rằng đứa bé sẽ trở thành một ông vua vĩ đại, hoặc một nhà hiền triết
cao quý. Về sau, cũng có việc mô tả sự đản sanh thanh tịnh của Đức Phật từ bên
hông của mẹ ngài ở một nơi không xa thành Ca Tỳ La Vệ, trong vườn Lâm Tỳ Ni
(Lumbini Grove, Lumbi-na’i tshal), việc Ngài bước đi bảy bước lúc đản sanh và
nói "ta đã đến nơi”, cùng với cái chết của mẹ ngài sau khi sanh ra ngài.
Thời
niên thiếu, Đức Phật sống một cuộc đời hoan lạc. Ngài lập gia đình và có một
người con trai là La Hầu La (Rahula, sGra-gcan ‘dzin). Trong những bản văn về
sau có ghi tên người vợ của ngài là Da Du Đà La (Yashodhara, Grags ‘ dzin-ma).
Tuy nhiên, lúc hai mươi chín tuổi, Đức Phật từ bỏ cuộc sống gia đình và di sản
hoàng tộc của mình, trở thành một người tầm đạo lang thang hành khất
(dge-sbyong, tiếng Phạn: shramana).
Điều
quan trọng là hãy nhìn vào tâm xả ly của Đức Phật trong bối cảnh xã hội và thời
điểm lúc bấy giờ. Khi trở thành người tầm đạo lang thang hành khất, Đức Phật đã
không bỏ rơi vợ con mình, để họ sống đơn độc trong nghèo đói. Chắc chắn là họ
đã được gia đình đông đúc giàu có của Ngài chăm sóc. Hơn nữa, việc Đức Phật
thuộc về đẳng cấp chiến binh có nghĩa là chắc chắn một ngày nào đó, Ngài sẽ
phải rời khỏi gia đình để ra trận mạc. Gia đình của một người chiến binh phải
chấp nhận điều này, vì đây là bổn phận của người đàn ông. Những chiến binh
trong thời Ấn Độ cổ đại không hề mang theo gia đình của họ đến các doanh trại.
Mặc
dù trận chiến có thể là để chống lại những kẻ thù bên ngoài, nhưng cuộc chiến
thật sự là chống lại những kẻ thù bên trong chúng ta, và đây chính là cuộc
chiến mà Đức Phật đã ra đi để chiến đấu. Đức Phật rời bỏ gia đình vì mục đích
này, cho thấy đó là bổn phận của một người tầm đạo, hiến dâng cả cuộc đời mình
để theo đuổi một mục đích. Tuy nhiên, trong thế giới hiện đại của chúng ta, nếu
rời bỏ gia đình để trở thành người xuất gia và phát động trận chiến bên trong
này, chúng ta cần phải bảo đảm rằng người nhà của mình sẽ được chăm sóc tốt.
Điều này có nghĩa là không chỉ lo lắng cho nhu cầu của người hôn phối và con
cái của mình, mà còn cho cha mẹ già của chúng ta nữa. Tuy nhiên, dù ta có rời
bỏ gia đình hay không thì bổn phận của một Phật tử đi theo con đường tâm linh
là làm giảm bớt đau khổ, bằng cách vượt qua sự say mê đối với các thú vui, như
Đức Phật đã làm.
Để
vượt qua nỗi khổ, Đức Phật muốn hiểu rõ bản chất của sinh, lão, bệnh, tử, tái
sinh, buồn phiền và vô minh. Một thời gian sau, một bản văn mở rộng hơn về điều
này xuất hiện, qua tình tiết về Xa Nặc, người đánh xe ngựa, đưa Đức Phật du
hành một chuyến qua thành phố. Khi Ngài trông thấy người bệnh, người già, người
chết và tu sĩ khổ hạnh, Xa Nặc giải thích cho Ngài hiểu về những người này. Nhờ
vậy, Đức Phật đã nhận định rõ ràng nỗi khổ thật sự mà mọi người phải trải qua
và phương cách khả dĩ để thoát khổ.
3
~ Tu Học và Giác Ngộ.
Là
một người độc thân lang thang tầm đạo, Đức Phật đã tu học với hai vị thầy về
các phương pháp để đạt đến những mức độ định tâm khác nhau (bsam-gtan, tiếng
Phạn: dhyana) và định vô sắc. Mặc dù Ngài đã có thể đạt đến các trạng thái sâu
xa của định tâm hoàn hảo, không còn trải nghiệm nỗi khổ thô trọng, hay ngay cả
hạnh phúc tầm thường của thế gian, nhưng ngài không thấy thỏa mãn. Những trạng
thái tâm thức cao hơn này chỉ mang lại sự vơi đi tạm thời, không phải là sự
giải thoát vĩnh viễn đối với những cảm thọ ô trược, và chắc chắn không diệt
được những nỗi khổ trầm luân, sâu xa hơn mà Ngài đã tìm cách vượt qua. Sau đó,
Ngài hành trì pháp tu cực kỳ khổ hạnh với năm người bạn đồng tu, nhưng lối tu
hành này cũng không loại bỏ được những vấn đề sâu sắc hơn, liên quan đến sanh
tử luân hồi bất khống chế (‘ khor-ba, tiếng Phạn: samsara). Việc Đức Phật chấm
dứt việc nhịn ăn sau sáu năm tu hành khổ hạnh bên bờ sông Ni Liên Thiền
(Nairanjana River, Chu-bo Nai-ranyja-na), cùng với việc cô gái Tu Già Đa
(Sujata, Legs-par skyes-ma) dâng cho Ngài một bát cơm sữa, chỉ xuất hiện trong
các bản tường thuật về sau.
Đối
với chúng ta, tấm gương của Đức Phật cho thấy ta không nên chỉ thỏa mãn với
việc tĩnh tâm hoàn toàn, hay đạt được cảm giác "thăng hoa” nhờ thiền định,
không kể đến những phương tiện nhân tạo như chất ma túy. Đi vào một trạng thái
hôn mê sâu xa, hoặc hành hạ hay trừng phạt bản thân cũng không phải là giải
pháp. Chúng ta phải đi trọn con đường dẫn đến sự giải thoát và giác ngộ, không
nên thỏa mãn với những phương tiện tâm linh không thể đưa ta đến những mục tiêu
này.
Sau
khi từ bỏ lối tu khổ hạnh, Đức Phật đã ngồi thiền một mình trong rừng già để
chiến thắng nỗi sợ hãi. Bên trong sự sợ hãi là tâm ái ngã và sự bám chấp vào "cái
tôi” không thể hiện hữu, thậm chí chúng còn mạnh hơn thái độ thôi thúc tìm kiếm
các thú vui và giải trí tiềm ẩn bên trong. Vì vậy, trong tác phẩm Pháp Luân của
Vũ Khí Sắc Bén (Blo-sbyong mtshon-cha’i ‘khor-lo) vào thế kỷ thứ 10 trước Công
Nguyên, vị đạo sư người Ấn Độ Dharmarakshita (Dharma-rakshi-ta) đã sử dụng hình
ảnh các con công đi lang thang trong rừng cây độc để tiêu biểu cho các vị bồ
tát sử dụng và chuyển hóa những cảm xúc độc hại của tham sân si, để giúp họ
vượt thoát tâm ái ngã và sự bám chấp lấy một "cái tôi” bất khả.
Sau
nhiều công phu hành thiền, Đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ lúc ngài ba mươi lăm
tuổi. Các bản tường thuật về sau còn cung cấp các chi tiết về việc Ngài giác
ngộ dưới một cây bồ đề (byang-chub-kyi shing) ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya,
rDo-rje gdan) ngày nay, sau khi đã ngăn chặn thành công các cuộc tấn công của
Ma Vương (bDud). Vị Ma Vương ganh tỵ này đã cố gắng ngăn cản Đức Phật giác ngộ
bằng cách biến hiện ra những hình ảnh đáng sợ hoặc cám dỗ, nhằm làm nhiễu loạn
việc thiền định của Đức Phật dưới cội bồ đề.
Theo
những bản tường thuật đầu tiên thì Đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ bằng cách đạt
được ba loại tri thức: tri thức toàn vẹn về tất cả các kiếp quá khứ của ngài,
về nghiệp và sự tái sinh của tất cả chúng sinh, và Tứ Diệu Đế. Các bản tường
thuật về sau còn giải thích rằng với việc giác ngộ, Đức Phật đã đạt được sự
toàn trí.
4
~ Giảng Dạy và Thành Lập Tăng Đoàn.
Sau
khi thành tựu giải thoát và giác ngộ, Đức Phật đã ngần ngại về việc chỉ dạy cho
người khác phương cách để đạt được những thành tựu như thế. Ngài cảm thấy rằng
sẽ không có ai hiểu được điều này. Tuy nhiên, các vị trời Phạm Thiên (Brahma,
Tshang-pa) và Đế Thích (Indra, dBang-po) đã khẩn nài xin Ngài chỉ dạy cho. Theo
các giáo huấn của Bà La Môn mà sau đó phát triển thành Ấn Độ giáo, Phạm Thiên
là vị trời sáng tạo ra vũ trụ và Đế Thích là Vua của chư Thiên. Trong lời khẩn
cầu của mình, Phạm Thiên nói với Đức Phật rằng thế gian này sẽ phải chịu nhiều
đau khổ triền miên nếu Đức Phật không giảng dạy, và ít nhất cũng có một số
người sẽ hiểu được lời của Ngài.
Chi
tiết này có thể là một yếu tố trào phúng cho thấy sự thù thắng của giáo huấn
của Đức Phật, vượt qua các phương pháp truyền thống tâm linh của Ấn Độ trong
thời của ngài. Xét cho cùng, nếu ngay cả những chư Thiên cao trọng nhất còn
công nhận rằng thế giới cần những lời dạy của Đức Phật, vì chính họ còn thiếu
phương tiện để giúp chúng sinh vĩnh viễn chấm dứt nỗi khổ; thì chúng ta là
những đệ tử bình thường, còn cần những giáo huấn này nhiều hơn nữa. Hơn nữa,
trong hình tượng của Phật giáo thì Phạm Thiên tiêu biểu cho sự kiêu mạn. Niềm
tin sai lầm của vị trời này cho rằng mình là bậc sáng tạo toàn năng, tượng
trưng cho mẫu mực của niềm tin sai lầm vào tự ngã tồn tại như một " cái tôi”
bất khả – cụ thể là một "cái tôi” có thể điều khiển hết mọi thứ trên đời. Niềm
tin lầm lạc như vậy chắc chắn sẽ mang đến sự thất vọng và đau khổ. Chỉ có giáo
huấn của Đức Phật về cách mỗi người chúng ta tồn tại như thế nào sẽ cống hiến
phương cách đưa đến sự chân diệt của nỗi khổ thật sự và nguyên nhân thật sự tạo
khổ.
Chấp
nhận lời yêu cầu của Phạm Thiên và Đế Thích, Đức Phật đã đến Sa Nặc (Sarnath)
và ở Vườn Lộc Uyển (Deer Park, Ri-dags-kyi gnas, tiếng Phạn: Mrgadava), Ngài đã
dạy Tứ Diệu Đế cho năm người đồng môn của mình trước đây. Trong hình tượng của
Phật giáo, nai tượng trưng cho sự nhu hòa, vì vậy, Đức Phật đã giảng dạy một
phương tiện nhu hòa, tránh các cực đoan của chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa
khổ hạnh.
Chẳng
bao lâu sau, một số thanh niên ở Ba La Nại (Varanasi, Va-ra-na-si) gần đó cũng
gia nhập theo Đức Phật làm khất sĩ lang thang, giữ lối sống độc thân nghiêm
ngặt. Cha mẹ của những người này trở thành những đệ tử tại gia và bắt đầu thí
thực cho đoàn khất sĩ. Khi có người nào trong tăng đoàn đã được đào tạo đầy đủ
và có đủ khả năng thì Đức Phật gửi người ấy ra ngoài giảng dạy cho người khác.
Bằng cách này, nhóm đệ tử khất sĩ theo Đức Phật nhanh chóng phát triển và chẳng
bao lâu, họ đã định cư và hình thành những cộng đồng "tăng lữ” riêng biệt tại
nhiều nơi.
Đức
Phật đã tổ chức những cộng đồng tăng lữ này theo các nguyên tắc thực tiễn. Các
tăng sĩ, nếu chúng ta có thể dùng thuật ngữ này ngay từ đầu, có thể nhận những
ứng viên gia nhập cộng đồng, nhưng họ phải tuân theo một số giới hạn nhất định
để tránh việc va chạm với chính quyền thế tục. Vì vậy, Đức Phật không cho phép
các tội phạm, những người phục vụ cho hoàng gia như trong quân đội chẳng hạn,
những nô lệ chưa được trả tự do, và những người mắc bệnh truyền nhiễm như phong
cùi gia nhập vào cộng đồng tăng lữ. Hơn nữa, những ai dưới hai mươi tuổi cũng
không được chấp nhận. Đức Phật muốn tránh bất cứ sự rắc rối nào và bảo đảm sự
tôn kính của dân chúng đối với cộng đồng tăng lữ và Phật pháp. Điều này cho
chúng ta thấy rằng, là đệ tử của Đức Phật, chúng ta cần tôn trọng những phong tục
địa phương và hành động với lòng tôn trọng, để dân chúng có một ấn tượng tốt
đẹp về đạo Phật và nhờ vậy, họ sẽ tôn trọng Phật giáo.
Không
lâu sau đó, Đức Phật quay về vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha, Yul ma-ga-dha),
nơi Bồ Đề Đạo Tràng tọa lạc. Ngài được Vua Tần Bà Sa La (Bimbisara, gZugs-can
snying-po) , người trở thành một thí chủ và đệ tử của Đức Phật, mời đến thủ đô,
thành Vương Xá (Rajagrha, rGyal-po’i khab) – ngày nay là Rajgir. Ở đó, những
người bạn của Xá Lợi Phất (Shariputra, Sha-ri’i bu) và Mục Kiền Liên
(Maudgalyayana, Mo’u dgal-gyi bu) cũng gia nhập vào tăng đoàn đang lớn mạnh của
Đức Phật và trở thành một số trong những đệ tử thân cận nhất của Ngài.
Trong
vòng một năm sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật đã trở về thành phố quê hương của
Ngài là Ca Tỳ La Vệ, nơi con trai của Ngài là La Hầu La cũng gia nhập vào tăng
đoàn. Trước đó, người em trai khác mẹ của Đức Phật là A Nan (Nanda, dGa’-bo)
tuấn tú, cũng rời bỏ gia đình và gia nhập tăng đoàn. Phụ thân của Đức Phật, Vua
Tịnh Phạn (Shuddhodana), rất buồn vì không còn ai nối dõi tông đường, nên nhà
vua đã thỉnh cầu Đức Phật rằng trong tuơng lai, một người con trai trong gia
đình phải có sự chấp thuận của cha mẹ mới được gia nhập tăng đoàn. Đức Phật
hoàn toàn đồng ý. Điểm tường thuật này cho thấy không phải Đức Phật tàn nhẫn
với cha của mình, mà cho thấy tầm quan trọng trong việc tránh tạo ra ác cảm đối
với đạo Phật, đặc biệt là trong gia đình của chúng ta.
Có
một chi tiết xuất hiện sau này về việc Đức Phật gặp gỡ gia đình của Ngài là khi
Ngài dùng thần thông để đến Cõi Trời Tam Thập Tam Thiên, hoặc theo một số tài
liệu, là Cõi Trời Đâu Suất (Tushita, dGa’-ldan) để giảng dạy cho thân mẫu của
Ngài, người đã tái sanh vào cõi này. Điều này cho thấy tầm quan trọng của lòng
biết ơn và trả hiếu cho mẹ.
5
~ Sự Phát Triển của Tăng Đoàn.
Các
cộng đồng tăng lữ của Đức Phật buổi ban đầu còn nhỏ, không quá hai mươi người.
Mỗi cộng đồng tự trị và tuân theo ranh giới được đặt ra cho đường đi khất thực
của các tăng sĩ. Hành động và quyết định của mỗi cộng đồng được thực hiện theo
cách bỏ phiếu nhất trí trong nhóm để tránh sự bất hòa. Không ai được đặt để là
người có quyền hành duy nhất. Thay vào đó, Đức Phật đã chỉ dẫn cho tăng chúng
xem chính giáo pháp là quyền lực. Ngay cả chính giới luật tăng đoàn cũng có thể
thay đổi, nếu thấy cần thiết, nhưng bất cứ sự thay đổi nào cũng phải dựa vào sự
đồng thuận của cả cộng đồng.
Vua
Tần Bà Sa La đã đề nghị Đức Phật chấp nhận tục lệ của các nhóm khất sĩ khác,
chẳng hạn như của Kỳ Na giáo (Jains, gCer-bu-pa) , tổ chức lễ Phát Lồ Sám Hối
bốn kỳ mỗi tháng (gso-sbyong, Skt. uposhadha). Theo tục lệ này, các thành viên
của cộng đồng tăng lữ sẽ tụ họp vào đầu mỗi quý trong mỗi tháng âm lịch để bàn
luận về các giáo huấn. Đức Phật đã đồng ý, điều này cho thấy Ngài cởi mở với
những đề nghị theo tục lệ của từng thời điểm. Thật ra thì Đức Phật đã tạo mô
hình cho nhiều phương diện trong cộng đồng tâm linh và cấu trúc của các bài
giảng của Ngài theo Kỳ Na giáo. Đại Cần Dũng (Mahavira), người sáng lập Kỳ Na
giáo, đã sống trước Đức Phật khoảng nửa thế kỷ.
Không
lâu sau đó, Xá Lợi Phất (Shariputra) đã yêu cầu Đức Phật thành lập quy định về
giới luật tăng đoàn. Tuy nhiên, Đức Phật đã quyết định chờ cho tới khi những
vấn đề cụ thể phát sinh rồi mới lập một lời thệ nguyện để tránh sự tái diễn của
một trường hợp tương tự như thế. Đức Phật đã sử dụng đường lối này đối với cả
hai loại hành vi, những hành vi phá hoại tự nhiên, có hại cho người nào phạm
phải, và những hành vi đạo đức trung lập bị ngăn cấm đối với một số người trong
một số trường hợp, vì một số lý do nào đó. Vì vậy, những giới luật (‘ dul-ba,
tiếng Phạn: vinaya) này rất thực dụng và được hình thành đặc biệt, với mối quan
tâm chính của Đức Phật là để tránh các vấn đề và không tạo ra hành vi phạm
giới.
Dựa
trên những giới luật này, Đức Phật lập ra việc tụng giới trong bốn kỳ tăng hội
mỗi tháng, cùng với việc chư tăng công khai thừa nhận bất kỳ sự phạm giới nào.
Việc trục xuất ra khỏi tăng đoàn sẽ xảy ra đối với những vi phạm nghiêm trọng
nhất, ngoài ra thì người phạm giới chỉ phải trải qua thời gian thử thách. Vào
thời gian sau, các kỳ họp như thế được tổ chức hai lần mỗi tháng.
Tục
lệ kế tiếp Đức Phật đề ra là việc an cư kiết hạ trong ba tháng mùa mưa
(dbyar-gnas, tiếng Phạn: varshaka), trong suốt thời gian này, chư tăng phải ở một
chỗ, tránh việc đi lại. Mục đích là để ngăn ngừa việc gây hại cho mùa màng khi
chư tăng phải băng qua những cánh đồng, khi đường sá bị lũ lụt. Việc giữ gìn
khóa an cư kiết hạ mùa mưa dẫn đến việc thiết lập các tu viện cố định. Một lần
nữa, sự phát triển này xảy ra là để tránh bất kỳ sự tổn hại nào cho cộng đồng
cư sĩ và có được sự tôn trọng của họ. Việc xây dựng các tu viện cố định cũng
được chấp thuận vì đó là điều thực tế.
Bắt
đầu từ khóa an cư kiết hạ mùa mưa lần thứ hai trở đi, Đức Phật đã trải qua hai
mươi lăm mùa an cư kiết hạ ở rừng Kỳ Viên (Jetavana, rGyal-bu rgyal-byed-kyi
tshal) bên ngoài Xá Vệ (Shravasti, gNyan-yod) , thủ đô của vương quốc Câu Tát
La (Koshala, Ko-sa-la). Ở đây, thương nhân Cấp Cô Độc (Anathapindada, mGon-med
zas-sbyin) đã xây một tu viện cho Đức Phật và các tăng chúng của Ngài, và Vua
Ba Tư Nặc (Prasenajit, rGyal-po gSa-rgyal) cũng bảo trợ thêm cho tăng đoàn. Tu
viện tại Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên (Jetavana) là nơi nhiều sự kiện lớn đã xảy ra
trong đời Đức Phật. Sự kiện nổi tiếng nhất là việc Ngài đánh bại các vị đạo
trưởng của sáu trường phái ngoại đạo lớn vào thời của Ngài, trong một cuộc thi
triển thần thông.
Ngày
nay, không ai trong chúng ta có thể thực hiện những thần thông điêu luyện. Tuy
nhiên, việc Đức Phật sử dụng thần thông thay vì dùng lập luận để đánh bại các
đối thủ của Ngài cho thấy rằng khi tâm trí của kẻ khác không cởi mở với lý
luận, thì cách tốt nhất để thuyết phục họ về giá trị của sự hiểu biết của bản
thân là chứng minh cho họ thấy trình độ thực chứng bằng việc làm và hành vi của
mình. Có một câu ngạn ngữ trong tiếng Anh: "Hành động có tiếng vang lớn hơn lời
nói”.
6
~ Thành Lập Ni Đoàn.
Trong
sự nghiệp hoằng hóa sau này của Đức Phật, Ngài đã thiết lập một cộng đồng nữ tu
ở Tỳ Xá Ly (Vaishali, Yangs-pa-can), theo lời thỉnh cầu của người dì của Ngài
là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahaprajapati, sKye-dgu’i bdag-mo chen-mo) . Lúc đầu,
Ngài miễn cưỡng với việc khởi xướng một ni đoàn như vậy, nhưng rồi Ngài quyết
định việc đó cũng có thể thực hiện được, nếu Ngài lập nhiều giới nguyện hơn cho
chư ni, so với chư tăng. Khi làm như vậy, Đức Phật không có ý cho rằng nữ giới
ít giữ kỷ luật hơn nam giới và cần phải điều phục tâm nhiều hơn bằng cách giữ
nhiều giới hơn. Đúng hơn là Ngài e ngại việc thành lập một ni đoàn sẽ mang lại
tai tiếng và giáo pháp của Ngài sẽ sớm chấm dứt. Trên hết, Đức Phật muốn tránh
sự bất kính của quần chúng khắp nơi, vì vậy, ni đoàn cần phải vượt qua bất cứ
sự nghi ngờ nào về các hành vi vô đạo đức.
Tuy
nhiên, nói một cách tổng quát thì Đức Phật đã ngần ngại trong việc thành lập
giới luật và sẵn sàng cho xóa bỏ một số quy luật nhỏ hơn, nếu như chúng được
xem là không cần thiết. Chính sách của Ngài cho thấy sự năng động của hai chân
lý – chân lý sâu xa nhất và vẫn tôn trọng chân lý quy ước phù hợp với phong tục
của địa phương. Mặc dầu trong chân lý sâu xa nhất thì không có vấn đề gì với
việc lập ni đoàn; tuy nhiên, để tránh cho thường dân xem nhẹ Phật giáo thì cần
phải có thêm giới luật cho chư ni. Theo chân lý sâu xa nhất thì dù xã hội có
nói gì cũng không thành vấn đề; tuy nhiên, theo chân lý quy ước thì việc cộng
đồng Phật giáo xứng đáng được công chúng kính trọng và tin tưởng là điều quan
trọng. Vì vậy, trong thời đại và xã hội tân tiến, ở những nơi có thể có sự bất
kính đối với đạo Phật nếu như có bất kỳ thành kiến nào xảy ra đối với chư ni
hay phụ nữ nói chung, hoặc đối với bất kỳ nhóm người thiểu số nào vì phong tục
của Phật giáo, thì noi theo tinh thần của Đức Phật, chúng ta sẽ sửa đổi những
phong tục đó, để chúng phù hợp với tiêu chuẩn của thời đại.
Sau
cùng, lòng khoan dung và bi mẫn là những nguyên tắc then chốt trong giáo huấn
của Đức Phật. Thí dụ, Ngài đã khuyến khích các Phật tử mới, những người trước
đây đã hỗ trợ cộng đồng tôn giáo khác, nên tiếp tục việc hỗ trợ này. Trong tăng
thân cũng thế, Ngài cũng chỉ bảo các thành viên phải chăm sóc lẫn nhau. Ví dụ,
nếu một vị tăng bị bệnh thì các vị tăng khác phải chăm sóc cho người đó, bởi vì
tất cả đều là thành viên của gia đình Phật tử. Đây cũng là một giới luật quan
trọng đối với tất cả các Phật tử tại gia.
7
~ Phương Pháp Giảng Dạy của Đức Phật.
Đức
Phật dạy mọi người vừa bằng tấm gương sống của Ngài, vừa bằng các chỉ giáo của
Ngài. Về các chỉ giáo, Ngài áp dụng hai phương pháp, tùy vào lúc Ngài đang
thuyết giảng cho một nhóm hay một cá nhân. Trước các nhóm thính chúng, Đức Phật
sẽ giảng giải theo hình thức thuyết pháp, thường lập lại từng điểm với những từ
ngữ khác nhau, để thính chúng có thể nhớ kỹ hơn. Tuy nhiên, khi ban chỉ giáo cho
các cá nhân, thường là sau buổi thọ trai mà một gia đình nào đó đã thỉnh mời
Ngài và tăng chúng của Ngài, Đức Phật sẽ sử dụng cách tiếp cận khác. Ngài không
bao giờ phản đối hay thách thức quan điểm của người nghe, mà sẽ chấp nhận lập
trường của họ và nêu ra những câu hỏi để giúp người nghe làm sáng tỏ tư tưởng
của họ. Bằng cách này, Đức Phật dẫn dắt người nghe cải thiện lập trường của họ
và dần dần đạt được sự hiểu biết sâu xa hơn về thực tại. Một ví dụ là việc Đức
Phật dẫn dắt một người kiêu hãnh thuộc đẳng cấp tu sĩ Bà La Môn hiểu rằng tính
ưu việt không bắt nguồn từ đẳng cấp người đó được sinh ra, mà từ việc phát
triển những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Một
ví dụ khác nữa là lời chỉ dẫn của Đức Phật đối với một bà mẹ tuyệt vọng, người
đã mang xác đứa con của mình tìm đến Đức Phật và van Ngài hãy giúp cho đứa bé
sống lại. Đức Phật bảo bà mẹ hãy mang đến cho Ngài một hạt giống mù tạt từ một
ngôi nhà mà cái chết chưa bao giờ xảy ra, rồi Ngài sẽ xem có thể làm được gì để
giúp con của bà. Người đàn bà đó đi hết từ nhà nọ đến nhà kia, nhưng gia đình
nào cũng đều có người đã chết. Dần dần, bà nhận ra rằng mọi người đều phải chết
và nhờ vậy, bà đã có thể bình tâm đem đứa con của mình đi hỏa táng.
Phương
pháp giảng dạy của Đức Thế Tôn cho chúng ta thấy rằng khi giúp người khác giải
quyết vấn đề cá nhân, tốt nhất là đừng đối đầu với họ. Cách hữu hiệu nhất là
giúp họ tự suy nghĩ cho chính họ. Tuy nhiên, đối với những nhóm người muốn học
hỏi về giáo pháp thì chúng ta cần phải giải thích một cách thẳng thắn và rõ ràng.
8
~ Những Mưu Đồ Chống Lại Đức Phật và Ly Gián.
Bảy
năm trước khi Đức Phật nhập niết bàn, người em họ đố kỵ của Ngài là Đề Bà Đạt
Đa (Devadatta, Lhas-byin) đã mưu đồ đoạt quyền lãnh đạo tăng đoàn của Ngài.
Tương tự như thế, Thái Tử A Xà Thế (Ajatashatru, Ma-skyes dgra) cũng âm mưu
soán ngôi của cha là Vua Tần Bà Sa La, người cai trị xứ Ma Kiệt Đà. Vì vậy nên
hai người cùng nhau bày mưu lập kế. Thái Tử A Xà Thế tìm cách mưu sát Vua Tần
Bà Sa La, và cuối cùng thì nhà vua từ bỏ ngai vàng, truyền ngôi lại cho con
trai của mình. Thấy được sự thành công của Thái Tử A Xà Thế, Đề Bà Đạt Đa đã
nhờ thái tử ám sát Đức Phật, nhưng mọi mưu kế sát hại Ngài đều thất bại.
Sau
đó, Đề Bà Đạt Đa cố tâm lôi kéo tăng chúng rời xa Đức Phật bằng cách tuyên bố
rằng mình " thánh thiện” hơn cả người anh họ của mình, và vì thế, đã đề nghị ra
một hệ thống giới luật nghiêm nhặt hơn. Theo quyển "Thanh Tịnh Đạo” (The Path
of Purification, tiếng Pali: Visuddhimagga) của đại sư Phật Âm (Buddhaghosa),
một vị thầy của Phật Giáo Nguyên Thủy vào thế kỷ thứ Tư trước Công Nguyên, thì
những đề nghị Đề Bà Đạt Đa đưa ra cho tăng sĩ bao gồm:
~
Mặc y vá từ những vải rách,
~
Chỉ mặc ba chiếc y mà thôi,
~
Đi khất thực và không bao giờ nhận lời mời đi thọ trai,
~
Không bỏ sót nhà nào khi đi khất thực,
~
Dùng hết một lượt những thức ăn thọ bát được,
~
Chỉ ăn từ bình bát của mình,
~
Từ chối mọi thực phẩm khác,
~
Chỉ sống trong rừng,
~
Sống dưới tàng cây,
~
Sống ngoài trời, không ở trong nhà,
~
Chủ yếu là sống ở những khu mộ địa,
~
Hài lòng với những nơi trú ngụ nào mình tìm được trong khi đi từ nơi này đến
nơi khác,
~
Ngủ ngồi, không bao giờ được ngủ nằm,
Đức
Phật nói rằng nếu tăng chúng nào muốn áp dụng thêm những giới luật này thì cũng
được, nhưng Ngài không buộc ai phải làm như thế. Tuy vậy, một số tăng sĩ của
Ngài đã chọn đi theo Đề Bà Đạt Đa, rời bỏ tăng đoàn của Đức Phật và lập tăng
thân riêng của họ.
Theo
Phật Giáo Nguyên Thủy thì các giới luật phụ trội do Đề Bà Đạt Đa đặt ra được
gọi là mười ba hạnh đầu đà (tiếng Pali: dhutanga) . Truyền thống chư tăng sống
trong rừng vẫn còn được tìm thấy, ví dụ ở Thái Lan ngày nay, dường như phát
xuất từ lối thực hành này. Ngài Đại Ca Diếp (Mahakashyapa, ‘ Od-bsrung
chen-po), đệ tử của Đức Phật, là hành giả nổi tiếng nhất về việc tuân theo giới
luật nghiêm khắc này. Nhiều hình thức của giới luật này cũng được các vị khất
sĩ (tiếng Phạn: sadhu) tuân theo, trong truyền thống Ấn Độ giáo. Việc thực hành
của họ dường như là sự tiếp nối truyền thống của các khất sĩ lang thang tầm đạo
vào thời Đức Phật.
Đại
thừa có một danh mục tương tự về mười hai hạnh đầu đà đặc thù
(sbyangs-pa’ispaceyon-tan, tiếng Phạn: dhutaguna) . Danh mục này bỏ đi điều
"không bỏ sót nhà nào khi đi khất thực”, thêm vào điều "mặc y đã bị vứt bỏ
trong thùng rác”, gộp chung hai điểm "đi khất thực” và "chỉ ăn từ bình bát của
mình” vào thành một. Các đại thành tựu giả Mật tông (grub-thob chen-po, tiếng
Phạn: mahasiddha) của truyền thống Ấn Độ sau này đã tuân theo đa số những giới
luật này. Các vị này có mặt trong cả hai tôn giáo, Phật giáo Đại thừa và Ấn Độ
giáo.
Việc
tách ra khỏi truyền thống Phật giáo đã được củng cố, rồi thành lập một tăng
đoàn khác – ví dụ, trong thời kỳ hiện đại, việc thành lập một trung tâm Phật
giáo riêng biệt – không phải là vấn đề. Hành động này, tự bản thân nó không tạo
ra một "sự ly gián trong cộng đồng tăng sĩ ”, một trong ngũ nghịch (mtshams-med
lnga). Tuy nhiên, Đề Bà Đạt Đa đã tạo ra sự ly gián và phạm vào một trọng tội
như thế, bởi vì nhóm tăng sĩ tách ra và đi theo ông đã nuôi một ác ý tột cùng
đối với cộng đồng tăng lữ của Đức Phật và chỉ trích họ kịch liệt. Theo một vài
bản tường thuật thì ý đồ ly gián xấu xa này đã kéo dài đến vài thế kỷ.
Việc
tường thuật về sự ly gián này cho thấy Đức Phật cực kỳ khoan dung và không phải
là người theo chủ nghĩa cơ bản. Nếu đệ tử của Ngài muốn áp dụng giới luật
nghiêm khắc hơn những gì Ngài đã đặt ra cho họ thì điều đó cũng không sao; và
nếu họ không muốn thì cũng được. Không ai bị bắt buộc phải thực hành những gì
Đức Phật đã dạy. Ngay cả nếu một vị tăng hay vị ni nào muốn rời khỏi giáo đoàn
thì cũng được. Tuy vậy, điều vô cùng tiêu cực là việc chia rẽ cộng đồng Phật
giáo, đặc biệt là tách rời cộng đồng tăng ni thành hai hoặc nhiều nhóm, trong
đó một nhóm hay cả hai lại có ác ý tột cùng với nhau, cố tâm làm mất uy tín hay
hủy hoại nhau. Ngay cả việc tham gia vào một trong những bè phái xung đột này
sau đó và tham dự vào chiến dịch thù hận đối với phe kia là điều cực kỳ có hại.
Tuy nhiên, nếu một trong những nhóm này tham gia vào hành động phá hoại hoặc
gây nguy hại, hay áp dụng giới luật tai hại, thì lòng từ bi nơi bạn sẽ kêu gọi
mọi người cảnh giác về mối nguy hiểm khi gia nhập vào nhóm đó. Tuy nhiên, động
cơ của bạn khi làm việc này phải không bao giờ trộn lẫn với tâm sân, hận, hoặc
ý muốn trả thù.
9
~ Đức Phật Nhập Diệt.
Mặc
dù khi đã thành tựu giải thoát, Đức Phật đã vượt qua cái chết bình thường thiếu
sự khống chế; tuy nhiên, ở tuổi tám mươi mốt, Đức Phật quyết định rằng việc dạy
cho các đệ tử của Ngài hiểu về lẽ vô thường sẽ là điều lợi lạc, và Ngài đã rời
bỏ thân xác của mình. Trước khi thực hiện điều này, Ngài đã cho thị giả của
Ngài là A Nan (Ananda, Kun-dga’-bo) một cơ hội để thỉnh cầu Ngài sống và giảng
dạy lâu hơn, nhưng A Nan đã không hiểu được sự gợi ý của Đức Phật. Điều này cho
thấy rằng một vị Phật chỉ giảng dạy khi có sự thỉnh cầu, và nếu không ai thỉnh
cầu hoặc quan tâm nữa thì Ngài sẽ đi nơi khác, nơi nào Ngài có thể tạo nhiều
lợi lạc hơn. Sự hiện diện và giáo huấn của một vị thầy tùy thuộc vào các đệ tử.
Thế
rồi ở Câu Thi Na (Kushinagara, Ku-sha’i grong-khyer, gNas rtsva-mchog) , tại
nhà của Thuần Đà (Chunda), Đức Phật lâm trọng bệnh sau khi thọ dụng bữa ăn do
vị thí chủ này cúng dường Ngài và nhóm tăng sĩ của Ngài. Trong giờ phút cuối
cùng, Đức Phật nói với các tăng sĩ rằng nếu họ có điều gì nghi ngờ, hoặc có
những thắc mắc chưa có câu trả lời, thì họ nên dựa vào các giáo huấn của Ngài
và nguyên tắc giới luật của họ. Những điều đó giờ đây sẽ là thầy của họ. Vì
vậy, Đức Phật đã chỉ rõ rằng mỗi người phải giải đáp thắc mắc của mình từ những
giáo huấn đó. Không một ai có thẩm quyền tuyệt đối để đưa ra câu trả lời. Thế
rồi Đức Thế Tôn nhập diệt.
Thuần
Đà đã hoàn toàn quẫn trí khi nghĩ rằng mình đã đầu độc Đức Phật. Nhưng A Nan đã
an ủi vị gia chủ này, nói rằng thật ra ông đã tạo nghiệp lực thiện hảo to lớn,
hay "công đức” lớn khi cúng dường cho Đức Phật bữa ăn cuối cùng, trước khi Ngài
nhập diệt.
Lễ
trà tỳ đã được cử hành cho Đức Phật, và xá lợi của Ngài được an vị trong các
bảo tháp – đài kỷ niệm chứa đựng thánh tích – đặc biệt ở những nơi trở thành
bốn thánh địa hành hương lớn cho Phật tử:
~
Lâm Tỳ Ni, nơi Đức Phật đản sanh,
~
Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Đức Phật đạt giác ngộ,
~
Sa Nặc, nơi Ngài ban Giáo Pháp đầu tiên,
~
Câu Thi Na, nơi Ngài nhập diệt.
10
~ Kết Luận.
Những
truyền thống Phật giáo khác nhau có những sự tường thuật khác nhau về cuộc đời
của Đức Phật. Sự khác biệt đó cho thấy mỗi truyền thống quan niệm như thế nào
về Đức Phật và những gì ta có thể học được từ tấm gương của Ngài.
Những
văn bản Tiểu thừa chỉ nói về Đức Phật lịch sử. Bằng cách nêu gương Ngài đã tu
tập miên mật ra sao để đạt được giác ngộ, chúng ta sẽ học hỏi cách tự nỗ lực tu
hành.
Theo
văn bản tổng quát của Đại Thừa thì Đức Phật đã đạt giác ngộ từ nhiều a tăng kỳ
kiếp trước. Bằng cách thị hiện một cuộc đời với mười hai hạnh giác ngộ, Ngài đã
dạy chúng ta rằng việc giác ngộ đòi hỏi sự tu tập mãi mãi vì lợi ích của tất cả
chúng sinh.
11
~ Các tôn hiệu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đức
Phật Tổ có nhiều tôn hiệu khác nhau. Tất cả những tôn hiệu này đều xuất hiện
sau khi Ngài tu hành đắc đạo và thuyết pháp độ chúng.
~
Thích Ca Mâu Ni:
"Thích
Ca Mâu Ni” là dịch từ chữ "Sakyamuni” trong tiếng Phạn. Chữ "Sakya”, dịch thành
chữ "Thích Ca”, là tên gọi của một bộ tộc ở Ấn Độ cổ đại. Chữ "Muni”, dịch
thành chữ "Mâu Ni”, nghĩa là giàu lòng nhân từ (Năng Nhân), rất giỏi chịu đựng
(Năng Nhẫn), biết cách nhường nhịn (Năng Nhu), biết cách giữ gìn cho thân tâm
thanh tịnh (Năng Tịnh). Nói tóm lại, "Thích Ca Mâu Ni” nghĩa là vị thánh của
dòng họ/ bộ tộc Thích Ca. Danh hiệu này để tôn xưng tên thật của Ngài là Cồ Đàm
Tất Đạt Đa.
~
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn được gọi bằng các tên "Phật Đà” hay "Phù Đồ”:
Nói
tắt là "Phật” hay "Bụt”, dịch từ chữ "Buddha” trong tiếng Phạn, nghĩa là "Giác”
(giác ngộ), "Người Giác” (người đã giác ngộ), "Người Trí” (người tinh thông mọi
đạo lý). Chữ "Giác” có 3 nghĩa: một là "Tự giác” (tự giác ngộ cho bản thân
mình); hai là "Giác tha” (giúp cho chúng sinh giác ngộ); ba là "Giác hạnh viên
mãn” (tu hành viên mãn hết mức và trở thành Phật), ngôi vị cao nhất trong tu hành
Phật giáo. Theo giáo pháp nhà Phật, chỉ có Phật (người giác) mới có đầy đủ ba
bậc, tức là ở bậc cao nhất. Các vị Bồ Tát còn thiếu một bậc (hay thấp hơn một
bậc). Các vị La Hán còn thiếu hai bậc (hay thấp hơn hai bậc). Phàm phu tục tử
còn thiếu cả ba bậc (hay ở bậc thấp nhất).
~
Thế Tôn:
"Thế
Tôn” là một tôn hiệu khác rất hay được dùng để chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
"Thế Tôn” vốn là cái tên mà đạo Bà La Môn dùng để gọi những vị trưởng giả. Tăng
sĩ và tín đồ Phật giáo sau này cũng dùng cái tên đó để tỏ lòng cung kính Thích
Ca Mâu Ni. Phật giáo coi Thích Ca Mâu Ni là người đức hạnh vẹn toàn, công đức
đầy đủ, có thể làm lợi cho thế gian, muôn loài đều tôn kính, cho nên gọi là
"Thế Tôn”.
~
Như Lai:
Cùng
với "Thế Tôn”, "Như Lai” cũng là tôn hiệu thường dùng nhất để chỉ Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni. "Như Lai” được dịch từ chữ "Tathagata” trong tiếng Phạn. "Như”
, còn gọi là "Như Thực” hay "Chân Như”, là để chỉ cái "chân lý tuyệt đối”,
"chân tướng của sự thật”, "bản thể của vũ trụ vạn hữu”. "Lai” nghĩa là đến.
"Như Lai” là những người đến bằng con đường chân thực, những người đã hiểu rõ
chân lý, những người đi theo con đường đúng đắn đến được chính giác. Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni là một trong số những người đến bằng cách như vậy nên được gọi
là "Như Lai”. Từ "Như Lai” dùng với nghĩa hẹp để chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
với nghĩa rộng để chỉ tất cả các vị Phật, như A Di Đà Như Lai, Dược Sư Như
Lai,v.v…
~
Ứng Cúng:
Đức
Phật là người đã đoạn trừ Nghiệp, Hoặc, vĩnh viễn thoát khỏi vòng luân hồi sinh
tử, muôn đức tôn nghiêm, phúc tuệ đầy đủ, nên xứng đáng với sự cúng dường của
chư Thiên và loài Người.
~
Chính Biến Tri:
Chính
là chân chính. Biến là khắp nơi, rộng lớn. Tri là hiểu biết. "Chính Biến Tri”
là người hiểu biết đúng đắn, hiểu biết tất cả bao trùm khắp thế gian.
~
Minh Hạnh Túc:
Đức
Phật là người có đầy đủ phúc tuệ, nghĩa có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh,
Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh,
Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh) nên được gọi là Minh Hạnh Túc.
~
Thiện Thệ:
Thiện
là tốt, khéo léo. Thệ là đi, vượt qua. Đức Phật là người tu tập theo con đường
chân chính, biết khéo léo vượt qua tất cả để nhập Niết Bàn.
~
Thế Gian Giải:
Đức
Phật là người thấu hiểu tất cả các pháp của thế gian.
~
Vô Thượng Sĩ:
Trong
tất cả các pháp thì Niết Bàn là Vô Thượng, trong loài người thì Đức Phật là Vô
Thượng, trong các thành quả thì Chính Giác là Vô Thượng. Chúng sinh trong chín
cõi đều không so sánh được với Đức Phật, nên Ngài có tôn hiệu là Vô Thượng Sĩ,
nghĩa là người đã lên đến cao vô thượng.
~
Điều Ngự Trượng Phu:
Đức
Phật là Đấng đại trượng phu có khả năng điều phục, chế ngự mọi ma chướng trong
khi tu hành chính đạo. Điều Ngự Trượng Phu còn một nghĩa khác nữa là Đức Phật
có khả năng điều phục những người hiền và ngự phục những kẻ ác theo về chính
đạo.
~
Thiên Nhân Sư:
Đức
Phật là bậc Đạo sư, là người thầy đưa đường dẫn lối đến giải thoát cho cả chư
Thiên lẫn loài Người.
~
Từ Phụ:
Đức
Phật thương tất cả chúng sinh như cha mẹ nhân từ thương con cái. Tình thương
này bình đẳng, an nhiên vô ngại, nghĩa là không phân biệt sự kính trọng hay sự
phỉ báng của chúng sinh đối với Đức Phật, không phân biệt người sang hay người
hèn. Chúng sinh càng lầm lạc thì lòng từ bi của Đức Phật càng vô lượng vô biên.
~
Chân Thật Ngữ:
Đức
Phật là đấng nói những lời chân thật, không phỉnh gạt chúng sinh. Những lời nói
của Đức Phật đều xuất phát từ trí tuệ toàn hảo, không phải tùy tiện.
~
Lưỡng Túc Tôn:
Lưỡng
Túc Tôn có hai nghĩa: Đức Phật là đấng tôn quý nhất trong những loài hai chân
(lưỡng túc: hai chân), như chư Thiên và loài Người. Và, Đức Phật là đấng đầy đủ
Phúc đức và Trí tuệ (lưỡng túc: cả hai đều đầy đủ).
~
Tỳ Nô Giá Na:
Phật
giáo Mật Tông gọi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là "Tỳ Nô Giá Na”, dịch ý nghĩa là
"Đại Nhật Như Lai”. Theo tiếng Phạn, "Tỳ Nô Giá Na” là tên gọi khác của Mặt
Trời. Dùng danh hiệu "Tỳ Nô Giá Na” có nghĩa coi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là
Mặt Trời hồng không bao giờ tắt; tuệ giác của Đức Phật như Mặt Trời soi sáng
khắp thế gian, xóa tan đêm tối vô minh.
~
Ngoài ra, Đức Phật còn được biết với một số tôn hiệu khác như:
Bạc
Già Phạm, nghĩa là người đã chiến thắng sự chế ngự của bản ngã; Tam Giới Tôn,
nghĩa là người đã giác ngộ, đã giải thoát khỏi tam giới là Dục giới, Sắc giới
và Vô Sắc giới; Toàn Giác, nghĩa là người đã giác ngộ hoàn toàn; Đạo Sư, nghĩa
là người thầy dẫn chúng sinh đến sự giải thoát, v.v…