Mới
đây nhất, ngày thứ hai 15 tháng 4 năm 2012, có vụ khủng bố nổ bom tại cuộc chay
đua ở Boston (Boston Marathon) đã gây thiệt mạng cho 3 người và gây thương tích
gần ba trăm người khác (282).
Rất
nhiều người trong số bị thương đó đã bị cưa một chân hoặc hai chân. Đặc biệt
ngày 25-4-2013 đài CNN đã giới thiệu một nạn nhân là cô Heather Abbot, 35 tuổi,
một cư dân của tiểu bang Rhode Island, bị cưa mất một chân. Lý do cô đến thăm
Boston là để xem trận đấu Baseball của đội Red Sox Boston ngày hôm đó. Nhân tiện
cô đi xem cuộc chạy bộ. Trong số 3 người chết có cô Lü Lingzi, 23 tuổi là sinh
viên của Boston University đến từ Trung Quốc.
Tuy
nhiên, ông Joe Berti, (43 tuổi), là trường hợp ngoại lệ đã thoát khỏi hai vụ nổ
bom ở Boston và hai ngày sau đó ở Waco, Texas. Ông là một trong tám người từ
Austin (Texas) đến Boston chạy đua để gây quỹ cho hội từ thiện
"Champions4Children” với mục đích cứu giúp những trẻ em bị bệnh hiểm nghèo và
gia đình họ.
Chỉ
vài giây sau khi ông đến đích cuối (finish line) thì ông nghe tiếng nổ kinh
hoàng. Bà Amy Berti, vợ ông, chờ ông bên lề đường ở finish line, chỉ cách vụ nổ
vài thước, nhưng may mắn không bị thương. Trong khi người đàn bà đứng kế bên Amy
thì bị chặt đứt hai chân và mấy ngón tay.
Thoát
khỏi tại họa ở Boston, ông trở về Texas để làm việc trở lại. Trên đường đến
Dallas, ông phải lái xe trên xa lộ 35 gần Waco thì đột nhiên ông nghe một tiếng
nổ rất lớn (ông kể giống như trái bom nguyên tử nổ). Một trái lửa rất lớn dội
ngược vào xe ông. May mắn thay ông không hề hấn gì.
Vào
tháng ba, năm 2011, có trận động đất rất lớn lên đến 9.0 Richter scale, dọc theo
bờ biển Tohoku phía Đông Bắc Nhật Bản. Trận động đất kéo theo những đợt sóng
thần cao đến 40.5 thước (133 ft), giết chết trên 15,848 người, mất tích gần
6,011 người và tàn phá biết bao nhà cửa…
Vậy
nhà Phật giải thích hiện tượng này như thế nào?
Trong
nhà Phật có hai loại nghiệp, đó là biệt nghiệp và cộng
nghiệp.
1)
Biệt nghiệp: Như thường lệ, cứ mỗi sáng ông A đi tản bộ chung quanh khu phố nhà
ông. Nhưng sáng nay vì sương mù dày đặc nên một chiếc xe không thấy ông băng qua
đường nên đụng làm ông chết tại chỗ. Trường hợp cái chết của ông A là biệt
nghiệp. Đối với biệt nghiệp thì vấn đề trở nên đơn giản vì nghiệp ai đã gieo thì
chỉ người ấy chịu, nhưng trước một tai họa chung thì sự việc phức tạp hơn
nhiều.
2)
Cộng nghiệp: Thật ra không nhất thiết một nghiệp ác đời này sẽ sinh ra quả báo ở
đời sau mà Luật Nghiệp Báo đã sắp xếp quả báo của mọi người một cách rõ ràng từ
nhiều trăm năm về trước khiến họ sống quay quần với nhau dọc theo bờ biển, hoặc
có những người ở nước khác thì nhân duyên cũng khiến họ đi du lịch đến những nơi
nầy trong thời điểm xảy ra tai họa.
Thật
vậy, chính nghiệp lực đã thúc đẩy những người có quả báo giống nhau tìm về ở chung một môi trường với nhau. Ví dụ
có khoảng vài ngàn người trong quá khứ tạo nghiệp ác ở rải rác khắp nơi trên thế
giới mà quả báo của họ khá giống nhau là phải chịu chôn vùi theo dòng nước.
Nhưng
nhân duyên để họ quay quần về sống gần nhau cần phải một thời gian là vài trăm
năm sau, do đó khi chúng ta thấy trận động đất, sóng thần ở Nhật Bản nước cuốn
theo hàng ngàn người là có sự chuẩn bị nhiều trăm năm của Luật Nghiệp Báo mà
thôi.
Chưa
chắc là những nạn nhân này đã từng tạo chung một nghiệp ác trong quá khứ. Có thể
mỗi người tạo riêng cho mình mỗi nghiệp ác nặng nhẹ khác nhau, nhưng tất cả đều
chiêu thành một quả báo giống nhau nên nghiệp duyên đã thúc đẩy họ cùng định cư
chung quanh bờ biển. Vì thế người nghiệp nặng thì chết, người nghiệp nhẹ hơn thì
bị gãy chân, gãy tay, hay chỉ bị xây xát.
Đức
Phật đã kết luận rằng:
-
Ai cùng đi theo người nào là đã có cái nghiệp chung với người đó. Những tỳ kheo
đi theo tôn giả Xá Lợi Phất có cái nghiệp chung, tức là cộng nghiệp, với Ngài về trí tuệ. Những tỳ kheo đi theo
tôn giả Mục Kiền Liên là có nghiệp chung với Ngài về thần thông… Cho tới các tỳ
kheo đi theo Đề Bà Đạt Đa cùng có nghiệp chung về ác dục.
Ngày
nay, chúng ta thấy cộng nghiệp hiển hiện rất thực tế và cụ thể. Người thích cờ
bạc chỉ muốn giao du với người chơi cờ bạc, còn kẻ ham rượu chè thì lân cận ăn
chơi với người uống rượu. Người thích đi chùa tụng kinh niệm Phật thì kết bạn
với người đi chùa tụng kinh niệm Phật. Như vậy, cộng nghiệp đưa đẩy con người
thân cận, kết bạn với nhau và biệt nghiệp khiến chúng ta có dáng mạo, tánh tình,
năng khiếu và trí tuệ khác nhau.
Vậy
Nghiệp có thể chuyển được chăng?
Con
người từ trong quá khứ đã tạo biết bao Nghiệp Báo, mà cứ mỗi nghiệp chính là một
nét vẽ, một vết mực điểm tô dần dần để hoàn thành bức tranh cho cuộc đời của họ
ở đời sau.
Do
đó bao nhiêu hạnh phúc, khổ đau, cay đắng hay vinh quang đều đã được hình thành
xong từ kiếp trước. Như vậy khi con người vừa mới kết tinh vào noãn bào của
người mẹ thì hài nhi đã cưu mang một định mệnh do chính nó tạo ra từ (kiếp)
trước. Cái định mệnh vô hình này sẽ quyết định mọi thưởng phạt cho cuộc đời của
nó khi nó lớn lên. Nhưng đây là một định mệnh không do thần linh áp đặt mà do
chính do con người tự tạo lấy cho mình.
Vậy
con người có thể thay đổi được cái định mệnh nầy không? Hay là với những nghiệp đã hình thành, con
người bị sức mạnh của nghiệp (lực) cuốn trôi khó mà chống
lại?
Để
trả lời nghi vấn này, trong kinh A Hàm, Đức Phật dạy rằng:
-
Người gây nhân bất thiện, dù đời trước hay sau, nếu họ biết tu tâm, tu thân và
tu giới thì quả sẽ đổi thay. Còn nếu người gây nhân bất thiện mà không biết tu
tâm, tu thân và tu giới thì gây nhân nào sẽ thọ quả nấy. Đó là nhân nào quả nấy
và nếu gây nhân mà biết chuyển nghiệp thì quả cũng đổi
thay.
Chính
Đức Phật đã cho chúng ta một nhận định rõ ràng về cuộc sống để chúng ta không
còn bận tâm về sự may rủi thành bại trong đời.
Nhưng
làm thế nào để chuyển nghiệp?
Tâm
hồn của chúng ta đã tích lũy biết bao khuynh hướng vị kỷ, tham lam, thù hận, đố
kỵ, hơn thua… từ bao nhiêu đời bao nhiêu
kiếp. Vậy muốn chuyển nghiệp chúng ta phải cố gắng chuyển hóa nội tâm của mình
trước đã, rồi hành động và hoàn cảnh sẽ dần dần thay đổi theo
sau.
Tu
tâm hay chuyển hóa nội tâm là cố gắng loại bỏ cho được lòng tham lam, tính sân
hận và tật si mê… Bản chất của con người là tham ăn, tham uống, tham mặc, tham
sống lâu, tham tiền, tham sắc, tham danh, tham lợi… Ai đụng đến chút tự ái là
nổi điên và hễ thấy vật đẹp, cao quý thì muốn chiếm lấy. Đây là tâm trạng chung
của con người vì tham, sân, si đã ăn sâu vào trong tiềm thức của chúng ta từ bao
nhiêu đời bao nhiêu kiếp.
Do
đó chuyển hóa nội tâm là phải can đảm từ bỏ dần dần cho được tánh tham, tật đố
để tâm được sáng suốt. Một khi tâm được sáng suốt thì thân khẩu ý trở thành
thanh tịnh và dĩ nhiên căn nghiệp sẽ chấm dứt.
Phật
dạy tu thân là thân nầy không làm điều ác dù lớn hay nhỏ đều phải tránh xa. Còn
điều thiện thì phải cố gắng hoàn thành. Còn tu giới là người Phật tử phải giữ
tròn ngũ giới, đó là không được sát sanh, không được trộm cướp, không được vọng
ngữ, không được uống rượu và không được tà dâm. Tuy nói tu tâm, tu thân và tu
giới nhưng chủ yếu vẫn là tu tâm.
Đức
Phật dạy nguyên nhân của mọi đau khổ là vô minh và ái dục, hay nói một cách khác
chính lòng tham lam, sân hận, si mê là nguồn gốc của mọi tranh chấp, oan trái để
rồi đem đến những sự lo âu sầu muộn và bất mãn. Con đường chuyển hóa nội tâm
thiết thực là chúng ta phải biết giữ mình theo Giới, Định, Tuệ để có thể diệt
trừ tham, sân, si thì đời sống sẽ được tự tại bởi vì tham thì phá giới, sân phá
định, còn si thì phá trí tuệ.
Muốn
diệt trừ tận gốc vô minh, con người phải phát triển trí tuệ vì chỉ có ánh sáng
của trí tuệ mới có đủ công năng xóa đi hết màn đêm bóng tối của si mê.
Không
phải hễ con người có thân là phải khổ, nhưng khổ là tại vì chúng ta nhận định
sai lầm nhắm mắt chạy theo chủ kiến hay định kiến của mình. Vì thế Chánh kiến
giúp con người thấy biết đúng mà nhà Phật gọi là "Như thị” và từ đó làm nền tảng
để phát triển trí tuệ. Thật vậy, có thấy biết đúng thì dòng tư tưởng mới trong sáng cho nên con
người hãy suy tư chính chắn vì tư tưởng sẽ biến thành lời nói.
Hãy
cẩn thận với lời nói của mình vì lời nói, ví như mũi tên bắn đi rồi không lấy
lại được, sẽ biến thành hành động.
Hãy
hành xử cẩn thận những hành động của mình vì hành động sẽ biến thành thói quen
(tập khí).
Và
sau cùng, con người hãy nhìn lại những thói quen của mình vì thói quen kia sẽ
biến thành nhân cách của mình đó.
Cuộc
đời có thanh thoát, nhẹ nhàng hay sóng gió chập chùng, phong ba bảo tố cũng bởi
từ cái nhân cách hay lối sống của chúng ta vậy. Nói cách khác cũng vì vô minh
bất giác, con người lầm lẫn nương theo
thân, khẩu, ý mà tạo ra nghiệp (thiện, bất thiện)(Hành) và từ đó số phận của
mình sẽ do nghiệp lực đẩy đưa (Thức).
Nhà
bác học Marie Curie nói rằng: "Không có gì trong cuộc đời là đáng sợ (khó khăn)
cả, một khi chúng ta (thực sự) hiểu được nó”. Do vậy, đạo Phật là đạo không làm
khổ mình, không làm khổ người mà muốn thành tựu thì con người phải quay về sống
với đạo đức nhân bản tức là cố gắng ly dục, ly bất thiện
pháp.
Đức
Phật lại dạy rằng:
- Người tùy theo thế tình thức là chạy theo
tham cầu danh vọng.
Trong
Kinh Trung A Hàm (Majjhima Nikaya), Đức Phật đã tóm gọn cốt lõi của đạo Phật
trong một câu thật ngắn gọn là "Không được bám víu vào bất cứ gì cả” mà Kinh Kim
Cang gọi là "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.
Thêm
nữa, muốn chuyển hóa nội tâm được chu toàn thì trước hết chúng ta phải phá tan
cái bản ngã của mình.
Đức
Phật đã khẳng định rất rõ ràng rằng ta gieo nhân thì chính ta phải gặt quả và
không có tha nhân nào, cho dù đó là Đức Phật hay Bồ Tát Quán Thế Âm có thể
chuyển "quả” của chúng ta được.
Nói
cách khác, mình gieo nhân thì tự gặt quả lấy, hoàn toàn không có một tác nhân
của Phật, Chúa Trời, Thần, Quỷ … can dự vô nhân quả của mình. Mình gieo nhân
tốt, không cần sự cứu rỗi của ai cũng được sanh lên các cảnh giới an lành. Nếu
mình làm chuyện bất thiện thì sau khi chết, nghiệp bất thiện nầy tương ứng với
cảnh giới của những người bất thiện, khiến tâm thức của người ấy sanh về cảnh
giới chịu khổ sở để trả quả báo ác độc chớ không có một vị thần nào đày ta xuống
cõi âm ti, địa ngục cả.
Tuy
nhiên, muốn lìa khổ được vui, đạo Phật dạy chúng sinh chuyển nghiệp tức là
chuyển mê thành giác. Cơ quan phát ra và tạo thành nghiệp gồm có: thân, khẩu, ý.
Trong
3 thứ nầy, quan trọng nhứt là ý. Ý nghiệp, là những suy tính, so đo phân biệt,
Duy Thức Học gọi nó là "liễu biệt cảnh thức”. Ý là chủ động tạo nghiệp. Khi ý
nghĩ điều lành, thì nó thúc đẩy cái miệng nói ra điều lành và cái thân làm điều
lành. Ngược lại, khi ý nghĩ điều xấu ác, thì nó xúi giục cái miệng nói điều xấu
ác hung dữ và thân hành động tàn bạo độc ác.
Chính
ba nghiệp nầy là động cơ tạo thành thiên đường hay địa ngục ở thế gian. Sự tu
hành của người Phật tử, Phật dạy không cần tu đâu xa, chỉ cần tu chuyển đổi ở
nơi 3 nghiệp này.
Sở
dĩ nói chuyển nghiệp mà không nói sửa nghiệp, bởi chữ chuyển ngầm ý nói lên bên
trong nội tâm hơn là nói cái bên ngoài. Chuyển đổi từ ý niệm xấu để trở thành ý
niệm tốt. Do đó, nhà Phật nói chuyển nghiệp mà không nói sửa nghiệp là
vậy.
Trở
lại câu chuyện của ông Joe Berti ở trên. Đáng lẽ nhân duyên quả báo đưa đẩy ông
và gia đình đến Boston để trả những nghiệp quả mà ông đã tác tạo từ kiếp trước,
nhưng vì ông có tâm hồn thiện, hành động từ tâm cứu giúp những người kém may mắn
nên những phước đức quá to lớn đó đã chuyển hết những tội nghiệp ngày xưa khiến
ông và bà vợ thoát khỏi tại họa hiểm nghèo.
Đây
là chuyện có thật bởi vì đạo Phật là đạo nhân duyên nghĩa là trong quá khứ cho
dù con người vì sống trong vô minh bất giác tạo nên bao nhiêu tội nghiệp (nhân).
...
Khi
nói về thiện ác, Lục Tổ dạy rằng:
Ngột
ngột bất tu thiện nghĩa là đừng đặt vấn đề thiện vì bất cứ việc gì không trái
với chơn tánh thì con người gán cho nó cái tên là thiện, chớ chẳng có gì thật là
thiện ác cả.
Đằng
đằng bất tạo ác nghĩa là chuyện ác ở đâu cũng có chỉ có điều là mình không làm
vì thế nếu không làm ác thì tự nó thành thiện chớ chẳng có cái gì là thiện.
Tịch
tịch bất kiến văn nghĩa là không còn chấp nơi thấy, nghe, hay, biết thì có thanh
tịnh nhẹ nhàng tức là thấy thì thấy tất cả mà như không thấy gì hết. Nghe, ngửi,
nếm, xúc, biết cũng thế. Nói thế thì người chứng đạo cũng biết vui, biết đẹp,
biết xấu, biết dở, biết tất cả đấy chứ, nhưng họ không đưa cái biết ấy vào tâm
(vô trước là không chấp) để rồi sanh ra
tham luyến cho nên đối với họ cái gì cũng biết nhưng xem như không biết gì
hết.
Đản
đản tâm vô trước nghĩa là tâm thênh thang mở rộng như trời cao đất rộng, không
còn dính mắc, chấp trước. Trời thì che chở bao dung cho tất cả mà không có ý
niệm che chở riêng cho bất cứ một chủng loại nào. Đất thì bao dung tất cả cho dù
con nguời có đổ lên đất những thứ hôi tanh nhơ bẩn hay hương hoa thơm ngát thì
đất cũng an nhiên, không giận, chẳng mừng.
Tóm
lại, Đức Phật khai mở một tôn giáo lấy lý trí làm nền tảng, một tôn giáo khoa
học, một tôn giáo dựa trên tinh thần vô ngã vị tha, một tôn giáo vô tín ngưỡng cho nên toàn bộ
giáo lý Phật Đà dựa trên giáo lý "Duyên Khởi” nghĩa là tất cả hiện tượng vật
chất hữu vi trên thế gian này từ nhỏ như vi trần cho đến to lớn như biết bao
hành tinh trong muôn vàn dãy Thiên hà đều là do trùng trùng duyên khởi tức là
vật thể làm nhân làm duyên, nhân này quả nọ, tác tạo mà thành chớ không có bàn
tay mầu nhiệm nào nhúng vào.
Từ
đó tam pháp ấn (xương sống) của nhà Phật ra đời, đó là "vô ngã, vô thường, khổ”
(Nguyên thủy) hoặc "vô ngã, vô thường, Niết bàn” hoặc là "vô ngã, vô thường,
khổ, không” (Đại thừa). Nếu đã là Duyên Khởi thì làm sao có tín ngưỡng
được?
Theo
Lê Sỹ Minh Tùng